Nền tảng thương mại điện tử đầu tiên của Trung Quốc, Alibaba Taobao, được ra mắt vào tháng 6/2003 trước khi Tổ chức Y tế Thế giới tuyên bố đã ngăn chặn được dịch SARS. Tuy nhiên, lúc này mọi giao dịch trực tuyến vẫn hạn chế bởi số lượng người dùng máy tính bàn và kết nối 2G chưa nhiều, chưa kể công nghệ có phần lạc hậu vào thời đó.
Khi điện thoại thông minh kết nối Internet trở nên phổ biến, thương mại điện tử thực sự bùng nổ khi số lượng người mua sắm trực tuyến tăng “phi mã”. Tuy nhiên, Alibaba gặp một trở ngại lớn - đó là thanh toán trực tuyến. Sự thiếu tin tưởng giữa người mua và người bán khiến việc hoàn tất giao dịch trực tuyến trở nên khó khăn.
Vào cuối năm 2004, Alibaba tung ra Alipay, nhà cung cấp dịch vụ thanh toán di động lớn nhất thế giới. Đến giữa năm 2019, Alipay đã có 1,2 tỷ người dùng. Theo Trung tâm thông tin mạng Internet Trung Quốc, tính đến tháng 6/2021, có hơn 872 triệu người dùng thanh toán kỹ thuật số tại Trung Quốc.
Đối thủ cạnh tranh lớn nhất của Alipay là WeChat Pay được ra mắt vào năm 2013. WeChat Pay đã thu hút một lượng lớn người dùng bằng cách giới thiệu lì xì điện tử trong dịp Tết Nguyên đán 2014. Đến giữa năm 2019, WeChat Pay có khoảng 900 triệu người dùng.
Thanh toán di động là sản phẩm công nghệ tài chính thành công nhất ở Trung Quốc, đóng vai trò to lớn đối với các hoạt động kỹ thuật số trong đại dịch Covid. Với smartphone và các mạng 4G/5G, người dân có thể tận hưởng dịch vụ thanh toán và tài chính khác ở mọi nơi. Một số nghiên cứu cho thấy, khi nông dân bắt đầu sử dụng dịch vụ thanh toán di động, cơ hội việc làm của họ sẽ mở rộng và thu nhập tăng lên.
Thanh toán di động mở ra cơ hội giúp những người bị bỏ lại bởi các tổ chức tài chính truyền thống.
Ngày nay, các nền tảng thanh toán trực tuyến như AliPay và WeChat không chỉ còn là phương thức thanh toán nữa mà còn là “hệ sinh thái” toàn diện. Người dùng có thể tổ chức cuộc sống hàng ngày của họ trên các hệ sinh thái này: đặt khách sạn, gọi taxi, mua vé máy bay, đặt giao đồ ăn…
Một số công ty công nghệ lớn như Ant (chi nhánh fintech của Alibaba) và Tencent (công ty tạo ra WeChat), bắt đầu cung cấp tín dụng bằng cách phát triển một hệ thống quản lý rủi ro tín dụng Big Tech mới. Hệ thống bao gồm hai trụ cột: nền tảng Big Tech và đánh giá rủi ro tín dụng dữ liệu lớn.
Các nền tảng Big Tech của Trung Quốc như Taobao, Alipay và WeChat thu hút một lượng lớn khách hàng với chi phí thấp, tận dụng lợi thế của chiến lược “cái đuôi dài” (bán số lượng ít cho nhiều người thay vì bán số lượng lớn cho ít người) của nền tảng. Đồng thời, ghi lại hoạt động kỹ thuật số của khách hàng và tích lũy dữ liệu lớn nhằm theo dõi thời gian thực các hoạt động của khách hàng vay tiền tiềm năng, tạo đầu vào cho phân tích rủi ro tín dụng. Cuối cùng, họ cũng có thể giúp người dùng quản lý việc trả nợ.
Sự kết hợp giữa nền tảng Big Tech và đánh giá rủi ro tín dụng dữ liệu lớn cho phép các công ty Big Tech cấp tín dụng cho số lượng lớn cá nhân và doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN), hầu hết trong số họ chưa bao giờ vay ngân hàng. Công ty cho vay MYbank đưa ra mô hình “3-1-0”, người dùng chỉ mất chưa đầy 3 phút để đăng ký trực tuyến, nếu được chấp thuận, số tiền được tự động chuyển vào tài khoản người đăng ký trong vài giây, không có sự can thiệp của con người. Bằng cách này, mỗi công ty cho vay lớn của Trung Quốc có thể cấp hơn 10 triệu khoản vay mỗi năm.
Tín dụng công nghệ lớn cũng đứng sau hoạt động kinh tế tương đối ổn định hơn của Trung Quốc trong cuộc khủng hoảng Covid-19. Một đóng góp quan trọng cho sự ổn định kinh tế vĩ mô và tài chính là loại bỏ cái mà cựu Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ Ben Bernanke gọi là ‘máy gia tốc tài chính’. Vì hầu hết các khoản vay DNVVN từ các ngân hàng thương mại đều được thế chấp nên có liên quan giữa giá tài sản và chính sách tín dụng.
Nghĩa là sự sụt giá nhẹ bất động sản có thể dẫn đến một cuộc khủng hoảng tài chính. Độ co giãn của tín dụng có tài sản đảm bảo của các ngân hàng thương mại đối với giá bất động sản trong nước là khoảng 0,6, tức là giá trị tài sản giảm 10% dẫn đến siết tín dụng là 6%. Các công ty Fintech không bị ảnh hưởng do cho vay dựa trên dữ liệu hơn là tài sản thế chấp. Độ co giãn của tín dụng MYbank đối với giá bất động sản trong nước là không đáng kể về mặt thống kê.
Công nghệ kỹ thuật số đang thay đổi nền kinh tế Trung Quốc, trở nên thuận tiện hơn, tăng hiệu quả, giảm chi phí, thay thế lao động và cải thiện trải nghiệm người dùng. Điều này đặc biệt quan trọng khi Trung Quốc có dân số già nhanh chóng. Trong nhiều lĩnh vực, robot và AI có thể thay thế lao động, giúp giảm bớt vấn đề thiếu hụt lao động.
Song quá trình chuyển đổi kỹ thuật số chỉ mới bắt đầu, cần nhiều thời gian để hiểu hết những hệ quả kinh tế của nó. Trong khi một số lợi ích là rõ ràng, công nghệ kỹ thuật số cũng tạo ra nhiều vấn đề cho các nhóm yếu thế.
Thái Hoàng (Theo Eastasiaforum)
Ứng dụng các công nghệ vào sản xuất trồng lúa ở tỉnh Hắc Long Giang góp phần cung cấp đủ sản lượng gạo cho hơn 1,4 tỷ người dân Trung Quốc.
" alt=""/>Kinh tế Trung Quốc chuyển biến mạnh mẽ nhờ công nghệ kỹ thuật sốNhững người dân ở Badagong thấy Chen bước đầu gặt hái được nhiều thành công và họ tìm đến sự giúp đỡ của cô để bán trái cây. Nhiều người trong số những nông dân này thuộc diện “dưới mức hộ nghèo”, thu nhập ròng bình quân đầu người hàng năm là 2.300 nhân dân tệ (NDT), nhưng Chen cho biết giờ đây họ kiếm được tới 3.000 NDT lợi nhuận hàng tháng thông qua các buổi livestream của cô, rất nhiều người dân trong làng đã thoát khỏi đói nghèo.
Chen cho biết hoạt động kinh doanh thương mại điện tử đã cải thiện rõ rệt cuộc sống của mình. Thịt, cá trước đây được xem là món ăn xa xỉ chỉ ăn trong các dịp lễ Tết thì giờ đây gia đình cô đã có thể có trong mỗi bữa ăn hàng ăn. Đến mùa thu hoạch vụ mùa, cô đã có thể thuê nhân công thay vì tự làm như trước đây. “Mẹ tôi từng làm việc rất vất vả, nhưng giờ đây với số tiền tôi kiếm được, bà ấy đã có thể nghỉ ngơi”, Chen chia sẻ.
Những “ngôi làng Taobao”
Làng Badagong không phải là ngôi làng duy nhất được hưởng lợi từ việc bán hàng trên các sàn thương mại điện tử. Những “ngôi làng Taobao” ngày càng xuất hiện nhiều ở Trung Quốc, giúp đời sống của người nông dân ở nơi đây được cải thiện đáng kể.
“Làng Taobao” (Taobao Village) là cụm từ để chỉ những ngôi làng có ít nhất 100 hộ kinh doanh trực tuyến trên một trong những sàn thương mại điện tử lớn nhất Trung Quốc - Taobao, tạo ra doanh thu 100 triệu nhân dân tệ (NDT) trở lên.
Theo dữ liệu từ AliResearch, sau 10 năm, mô hình làng Taobao đã mang lại lợi nhuận cho khoảng một nửa tổng dân số nông thôn ở Trung Quốc. Tính đến tháng 8/2019, có tổng cộng 4.310 ngôi làng Taobao ở 25 tỉnh thành.
Tổng doanh thu do các làng Taobao tạo ra lên tới 700 tỷ NDT trong một năm. Tổng số cửa hàng trực tuyến của nông dân đang hoạt động trên Taobao đã tăng gần 10 lần lên 660.000 vào năm 2018, từ 70.000 vào năm 2014. Vào năm 2019, 63 ngôi làng Taobao nằm ở những khu vực nghèo khó nhất của Trung Quốc đã tạo ra khoảng 2 tỷ đồng NDT doanh số thương mại điện tử.
Nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới và AliResearch cho thấy thu nhập trung bình hộ gia đình ở làng Taobao gấp ba lần thu nhập của những hộ gia đình nông thôn bình thường, tương đương với thu nhập hộ gia đình thành thị. Báo cáo cũng cho biết thương mại điện tử ở các vùng nông thôn góp phần giảm bất bình đẳng thu nhập và tạo cơ hội làm việc tốt hơn cho phụ nữ và thanh niên, tạo ra 6,8 triệu công việc trong một năm cho người dân nông thôn.
Tại sao các sàn thương mại điện tử vào cuộc?
Các công ty đã chỉ ra rằng họ ngoài mục đích sẽ giúp xóa đói giảm nghèo ở các vùng nông thôn, còn hướng tới mục tiêu “đưa nông sản quê lên phố” giúp người tiêu dùng có thể mua trực tiếp các sản phẩm tươi sống, chuẩn nông mà không cần thông qua bên trung gian như trước đây.
Nhu cầu đối với các sản phẩm nông nghiệp trên khắp Trung Quốc đã bắt đầu xuất hiện những năm gần đây. Từ năm 2014 đến năm 2017, thương mại điện tử ở nông thôn đã tăng gần 7 lần, từ 180 tỷ NDT lên 1,24 nghìn tỷ NDT.
Theo Bộ Thương mại, trong lễ hội mua sắm Ngày Độc thân của Alibaba được tổ chức vào tháng 11 năm 2019, doanh thu nông sản mang lại đạt 7,4 tỷ NDT, tăng 64% so với năm trước.
Thứ trưởng Bộ Thương mại Wang Bingnan cho biết, thương mại điện tử của Trung Quốc đã phát triển nhanh chóng ở các vùng nông thôn và đã bao phủ tất cả 832 quận nghèo trên toàn quốc, tạo điều kiện cho các khu vực nghèo phát triển các mô hình kinh doanh mới.
Doanh số bán lẻ trực tuyến ở các khu vực nông thôn đã tăng từ 180 tỷ NDT năm 2014 lên 1,7 nghìn tỷ NDT vào năm 2019. Tổng doanh thu bán lẻ trực tuyến các sản phẩm nông nghiệp đạt 397,5 tỷ NDT vào năm 2019, tăng 27% so với cùng kỳ năm trước, giúp hơn ba triệu nông dân tăng thêm thu nhập.
“Mục tiêu của chúng tôi là xây dựng một công cụ kỹ thuật số để phục hồi nông thôn và một cơ sở hạ tầng nông thôn mới được thúc đẩy bởi công nghệ”, Li Shaohua, Phó chủ tịch Alibaba chia sẻ.
Cũng theo ông Li, các chiến lược bao gồm liên kết các khu vực thành thị và nông thôn ở Trung Quốc, giúp người tiêu dùng thành thị tiếp cận với nhiều sản phẩm nông nghiệp hơn, đồng thời giới thiệu các sản phẩm thành thị đến các làng quê nông thôn để giúp cải thiện chất lượng cuộc sống của họ. Đến năm 2022, Alibaba hy vọng rằng doanh số bán các sản phẩm nông nghiệp trên nền tảng của mình có thể vượt 400 tỷ NDT mỗi năm.
Những “cuộc đua” trong tương lai
Alibaba không phải là nền tảng duy nhất chú ý đến thương mại điện tử nông thôn. Pinduoduo, nền tảng thương mại điện tử lớn thứ ba về bán hàng ở Trung Quốc, cũng đã đưa ra các sáng kiến xóa đói giảm nghèo ở nông thôn như Duo Duo Farms, sử dụng trí tuệ nhân tạo (AI) để giúp tổng hợp nhu cầu đối với các sản phẩm nông nghiệp và kết nối trực tiếp nông dân với các thương gia và người tiêu dùng muốn mua hàng của họ. Trong khi đó, nhà bán lẻ thương mại điện tử JD.com cũng đã thúc đẩy nông nghiệp, tung ra các sáng kiến như JD Farm sử dụng công nghệ như kết nối vạn vật (IoT), AI và blockchain để các trang trại có thể áp dụng cách tiếp cận dựa trên dữ liệu nhờ đó cải thiện hiệu quả năng suất.
Chính quyền các địa phương tại Trung Quốc cũng đang “háo hức” tham gia vào cuộc đua này, với việc chung tay cùng những người có tầm ảnh hưởng (KOL) để quảng bá sản phẩm địa phương, điển hình như chính quyền Vũ Hán phát trực tiếp chương trình bán mì khô, tôm càng, lá trà và cam vào tháng 4 năm 2020 sau khi thành phố ngừng hoạt động do dịch Covid-19.
Bán hàng trực tiếp (livestream) sẽ là một công cụ quan trọng cho người nông dân giới thiệu sản phẩm của mình đến tay người tiêu dùng. Theo "Báo cáo phát triển thị trường tiêu dùng Trung Quốc năm 2020" do Viện Nghiên cứu Bộ Thương mại phát hành, trong nửa đầu năm 2020, đã có hơn 10 triệu chương trình phát sóng thương mại điện tử trực tiếp, với hơn 50 tỷ người xem và hơn 20 triệu sản phẩm được bày bán. Xu hướng này đã lan rộng đến cả các vùng nông thôn và có một sự phát triển nhanh chóng. Doanh thu của mạng lưới sản phẩm nông nghiệp quốc gia trong ba quý đầu năm 2020 đạt 288,41 tỷ NDT, tăng 4,3% so với cùng kỳ năm trước.
Hương Dung(Tổng hợp)
Đây là nền tảng thương mại điện tử được phát triển với mục đích kết nối các cá nhân tự kinh doanh với các nhãn hàng, từ đó mở rộng mạng lưới phân phối sản phẩm trực tuyến.
" alt=""/>Thương mại điện tử “cứu' nông dân Trung QuốcTại cuộc họp do 4 cơ quan nhà nước cùng tổ chức, 11 công ty Internet lớn của Trung Quốc đã được triệu tập. Theo thông báo của Bộ Nguồn nhân lực và An sinh xã hội (MHRSS), chính phủ hướng dẫn doanh nghiệp phải có “ý thức về chính trị, tư tưởng và hành động” đối với các nhân viên không chính thức (gig worker). Dù các công ty đã đạt được một số tiến bộ trong việc thi hành quy định mới về quyền lợi người lao động, họ vẫn còn nhiều việc phải làm.
Theo SCMP, nhiều tên tuổi công nghệ lớn đã có mặt trong cuộc họp, bao gồm Alibaba, Tencent, Didi Chuxing, Cao Cao Mobility, Meituan, Ele.me. Bên cạnh MHRSS, còn có Bộ Giao thông, Cục Điều tiết thị trường (SAMR), Liên đoàn Công đoàn toàn Trung Quốc tham gia.
Nhà chức trách cho biết, các nền tảng cần hiểu biết sâu sắc nhu cầu của người lao động, tăng cường giám sát việc bảo vệ quyền lợi của họ, tiếp tục cải thiện thuật toán và quy định lao động, nâng cao thể chế để bảo vệ quyền và lợi ích.
Đây là một phần trong việc đánh giá quyền lợi người lao động sau khi 7 cơ quan chính phủ công bố hướng dẫn hồi tháng 7/2021. Hướng dẫn nhằm bảo đảm quyền lợi cơ bản của người lao động trong “các hình thức tuyển dụng mới”, trong đó có tài xế giao đồ ăn, tài xế taxi/ xe ôm công nghệ và các công việc tạm thời khác. Cũng trong tháng 7, SAMR và 6 cơ quan khác công khai chính sách riêng biệt để bảo vệ quyền lợi của nhân viên giao đồ ăn, nhắc đến những vấn đề như thu nhập cơ bản, an toàn lao động, an toàn thực phẩm, môi trường làm việc, bảo hiểm.
Bắc Kinh đang tăng cường siết quản lý các hãng công nghệ lớn, nhấn mạnh đến quyền lợi người tiêu dùng và người lao động. Năm 2021, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình đưa “thịnh vượng chung” là mục tiêu chính sách quan trọng, nhằm phân phối tài sản cho nhiều người hơn.
Khiếu nại từ gig worker gia tăng trong vài năm qua, nhiều người nói họ thiếu các biện pháp bảo vệ hợp lý. Năm 2020, tạp chí Renwu công bố báo cáo bộc lộ những rủi ro mà tài xế giao đồ ăn gặp phải khi phải chạy đua với thời gian giao hàng sít sao mà thuật toán các công ty đặt ra. Một năm trước đó, một trong những nhân viên giao hàng của Meituan đã đâm chết một nhân viên siêu thị, làm dấy lên tranh cãi trên mạng xã hội về áp lực mà những người này phải chịu. Tính đến cuối năm 2020, Trung Quốc có khoảng 84 triệu nhân viên thời vụ như vậy, theo MHRSS.
Du Lam (Theo SCMP)
Dịch vụ xe 4 bánh GoCar hoạt động tại Hà Nội từ ngày 4/1, sau hơn 1 tháng triển khai tại TP.HCM. Thị trường gọi xe công nghệ được kỳ vọng sẽ sôi động trở lại trong năm 2022.
" alt=""/>Bắc Kinh yêu cầu Big Tech bảo vệ shipper, tài xế công nghệ tốt hơn